Thực trạng và giải pháp công tác giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội

25/10/2022 6:17:24 CH
Share Bai :

Về công tác giáo dục nghề nghiệp (GDNN) Thủ đô vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, như: Cơ cấu đào tạo GDNN còn bất cập, chủ yếu vẫn là trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng (chiếm khoảng 75%), trình độ trung cấp, cao đẳng chiếm tỷ lệ thấp (khoảng 25%); Tâm lý trọng bằng cấp vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ của một số người dân. Đa số học sinh sau khi tốt nghiệp cấp THPT đều đặt mục tiêu vào đại học, không muốn đi học nghề.

Về quản lý mạng lưới cơ sở GDNN: Mạng lưới cơ sở GDNN của Thành phố hiện đang được thực hiện theo 2 quy hoạch: “Quy hoạch phát triển mạng lưới trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề đến năm 2020, định hướng đến năm 2030” và “Quy hoạch mạng lưới trường học thành phố Hà Nội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” đã được UBND Thành phố phê duyệt tại Quyết định số 673/QĐ-UBND ngày 24/01/2014 và Quyết định số 3075/QĐ-UBND ngày 12/7/2012. Hệ thống cơ sở hoạt động GDNN trên địa bàn Thành phố có bước phát triển mạnh với đa dạng về loại hình, trình độ đào tạo và mô hình hoạt động. Hà Nội đã trở thành một trong những thành phố có số lượng cơ sở GDNN, cơ sở hoạt động GDNN lớn nhất cả nước với 307/357 cơ sở GDNN, cơ sở có hoạt động GDNN có đăng ký hoạt động GDNN (gồm 69 trường cao đẳng, 59 trường trung cấp, 54 trung tâm GDNN/dạy nghề và 124 doanh nghiệp, loại hình khác).

Thủ đô là nơi tập trung nhiều trường đại học, các trường đại học có chỉ tiêu tuyển sinh lớn, tiêu chí xét tuyển thấp. Do vậy các trường trung cấp, cao đẳng rất khó để cạnh tranh tuyển sinh với các trường đại học; Cơ sở vật chất, trang thiết bị đào tạo của nhiều cơ sở GDNN (đặc biệt là các trường công lập) vẫn còn nhiều hạn chế so với yêu cầu, đòi hỏi về chất lượng đào tạo của thị trường lao động Thủ đô, đặc biệt đối với những ngành nghề mới xuất hiện, đòi hỏi công nghệ cao theo nhu cầu của xã hội thì việc đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị đào tạo của các cơ sở GDNN vẫn chưa đáp ứng.

Về công tác tuyển sinh, phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông: Tăng cường công tác giáo dục định hướng nghề nghiệp trong các cơ sở giáo dục phổ thông, các trung tâm GDNN – giáo dục thường xuyên; xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích học sinh đi học nghề; tạo điều kiện thuận lợi thu hút học sinh học vừa học văn hóa, vừa học nghề tại các cơ sở GDNN; triển khai thực hiện có hiệu quả chỉ đạo của UBND Thành phố về công tác phân luồng học sinh tốt nghiệp THCS tham gia học nghề trình độ trung cấp, tăng tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT tham gia học nghề trình độ cao đẳng tại các Đề án, Kế hoạch, Chương trình của Trung ương, Thành phố. Để thực hiện được các mục tiêu, chỉ tiêu trong thời gian tới, cần định hướng và xây dựng các giải pháp nhằm triển khai quyết liệt, đồng bộ một số nhiệm vụ cụ thể như sau:

Đẩy nhanh chuyển đổi số, hiện đại hóa cơ sở vật chất thiết bị và đổi mới chương trình, phương thức đào tạo trong hoạt động GDNN: Thực hiện công tác chuyển đổi số trong GDNN với mục tiêu phát triển các hoạt động trên môi trường số, đẩy mạnh và tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, công nghệ thông tin trong công tác quản lý, hoạt động dạy học, phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá giúp tăng cường hiệu quả công tác quản lý; tăng số lượng đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Thành phố; Hiện đại hóa cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo của cơ sở GDNN. Hàng năm triển khai rà soát, xây dựng, chỉnh sửa chương trình, giáo trình cho phù hợp với nhu cầu thực tế của thị trường và doanh nghiệp; Khuyến khích các cơ sở GDNN sử dụng, phát triển các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài, các chương trình đào tạo cho người nước ngoài tại Việt

  • Phát triển đội ngũ nhà giáo, nghệ nhân, chuyên gia, người dạy nghề và cán bộ quản lý trong GDNN: Xây dựng đội ngũ nhà giáo theo hướng chuẩn hoá, bảo đảm về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và chất lượng kỹ năng nghề nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực theo yêu cầu của thị trường lao động; trọng tâm là phát triển đội ngũ nhà giáo thuộc các ngành nghề trọng điểm có năng lực chuyên môn, kỹ năng nghề đạt chuẩn khu vực và quốc tế.

Huy động và khuyến khích các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động, người sử dụng lao động, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tích cực tham gia đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghề cho nhà giáo GDNN; hỗ trợ nhà giáo cập nhật, nâng cao kỹ năng thực hành nghề, tiếp cận công nghệ mới tại doanh nghiệp; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ GDNN cho cán bộ làm công tác đào tạo tại doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động. Thu hút và có cơ chế chính sách sử dụng lực lượng lao động có tay nghề cao trong các doanh nghiệp tham gia hoạt động đào tạo tại các cơ sở GDNN.

  • Gắn kết đào tạo với sử dụng lao động, giữa cơ sở GDNN với doanh nghiệp: Khai thác hiệu quả dữ liệu, thông tin thị trường lao động quốc gia kết hợp với điều tra định kỳ hoặc đột xuất về nhu cầu lao động, nhu cầu kỹ năng, nhu cầu đào tạo của doanh nghiệp, người sử dụng lao động và phản hồi của người tốt nghiệp phục vụ quản lý và đào tạo. Tăng cường gắn kết giữa cơ sở GDNN và các trung tâm dịch vụ việc làm, sàn giao dịch việc làm, hội chợ việc làm, trung tâm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; hỗ trợ người học tìm việc làm sau tốt nghiệp; gắn kết đào tạo với việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Đẩy mạnh các hoạt động đào tạo nghề tại chỗ để nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động, thực hiện đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động khi doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động thay đổi công nghệ.
  • Nghiên cứu ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ; hướng nghiệp, khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo: Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý, nhà giáo về nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, tư vấn hướng nghiệp, khởi nghiệp và các tổ chức khoa học – công nghệ về GDNN đặc biệt là đơn vị nghiên cứu phục vụ quản lý nhà nước. Hình thành các trung tâm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại các GDNN chất lượng cao. Tăng cường nghiên cứu khoa học GDNN theo hướng ứng dụng và chuyển giao công nghệ với sự tham gia của người học, nhà giáo, chuyên gia, nghệ nhân, người sử dụng lao động. Gắn hoạt động đào tạo với chuyển giao công nghệ, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và chuyến giao công nghệ. Đẩy mạnh thực hiện nghiên cứu khoa học theo cơ chế đặt hàng; gắn kết các tố chức nghiên cứu khoa học với nhà trường và doanh nghiệp. Đẩy mạnh hướng nghiệp trước, trong và sau đào tạo nghề nghiệp; thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo cho người học và các hoạt động hỗ trợ người học khởi nghiệp, tự tạo việc làm; xây dựng không gian khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo trong các cơ sở GDNN.
  • Tăng cường huy động và nâng cao hiệu quả đầu tư tài chính cho GDNN: Đa dạng hóa nguồn lực đầu tư cho GDNN, khuyến khích khu vực tư nhân tham gia hoạt động GDNN. Thúc đẩy sự hỗ trợ, tài trợ của các nước phát triển, các tổ chức quốc tế đầu tư cho GDNN. Đẩy mạnh tự chủ đối với cơ sở GDNN công lập. Tăng cường nguồn thu sự nghiệp từ hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động liên doanh liên kết và cho thuê tài sản công theo quy định của pháp luật. Ưu tiên đầu tư trọng điểm một số trường cao đẳng công lập thuộc Thành phố để trở thành trường chất lượng cao với mục tiêu thực hiện chức năng đào tạo và thực hành vùng, quốc gia; ngành/nghề đào tạo mới, kỹ năng tương
  • Truyền thông, nâng cao hình ảnh, thương hiệu và giá trị xã hội của GDNN: Tăng cường tuyên truyền, phổ biến chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; các văn bản chỉ đạo của Thành phố về phát triển nguồn nhân lực, về GDNN để toàn xã hội nhận thức đúng vị trí, vai trò và tầm quan trọng của GDNN, tầm quan trọng của kỹ năng lao động và cơ hội có việc làm, thu nhập ổn định sau đào tạo nghề nghiệp. Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, xây dựng tin, bài, chuyên mục trên báo chí; tuyên truyền trên hệ thống thông tin cơ sở, trong đó tập trung tuyên truyền trên đài truyền thanh cơ sở về GDNN, bảo đảm thông tin tin cậy, đầy đủ, kịp thời, phù hợp với từng nhóm đối tượng về hình ảnh, vị thế, thông điệp quốc gia về GDNN, ngày Kỹ năng lao động Việt Nam, Tuần lễ kỹ năng nghề… Tăng cường tuyên truyền, phổ biển giáo dục pháp luật về giáo dục nghề nghiệp. Tổ chức và tham gia các chương trình, sự kiện, cuộc thi, giải thưởng, danh hiệu nhằm tôn vinh người học, nhà giáo, người dạy nghề, cán bộ quản lý, người sử dụng lao động, lao động có kỹ năng, các tổ chức có nhiều thành tích, đóng góp cho hoạt động GDNN và phát triển kỹ năng nghề.
  • Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về GDNN: Mở rộng hợp tác quốc tế để trao đổi và học tập kinh nghiệm của các nước, đặc biệt là các nước thành công trong phát triển GDNN. Khuyến khích hợp tác với cơ sở GDNN của các nước phát triển và trao đổi chương trình đào tạo, trao đổi nhà giáo, chuyên gia đào tạo; chuyển giao công nghệ, phương pháp giảng dạy; Hợp tác nghiên cứu khoa học về GDNN, nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ đào tạo nghề nghiệp tiên tiến để nâng cao chất lượng GDNN. Tích cực tham gia các hoạt động quốc tế về GDNN.

Để tận dụng tốt thời cơ và vượt qua những nguy cơ, thách thức từ cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, vấn đề khai thác nguồn lực con người, nhất là xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là vấn đề đang đã được đặt ra đối với Việt Nam nói chung và Thủ đô nói riêng; Điều này rất cần sự chủ động, tích cực vào cuộc của các cơ sở GDNN và doanh nghiệp để biến các chủ trương, kế hoạch xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao thành hiện thực, đặc biệt là trong bối cảnh đất nước phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức như hiện nay./.

CTV Vũ Thị Ngọc Anh

Trường Trung cấp Công nghệ và Du lịch Hà Nội

  • Tags: