THÚC ĐẨY CHỐNG SA MẠC HOÁ VÀ GIẢM BỚT HẠN HÁN

24/08/2024 3:44:35 CH
Share Bai :

Những năm gần đây, thế giới liên tục phải hứng chịu những tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu, nắng nóng khắc nghiệt, hạn hán, cháy rừng, lũ lụt và mưa bão kỷ lục, gây thiệt hại về người và làm xáo trộn cuộc sống của người dân. Các hiện tượng thời tiết cực đoan đã dẫn đến những tổn thất đáng kể về kinh tế đối với nhiều quốc gia và cũng đang trở thành nguyên nhân khiến tình trạng sa mạc hóa, hạn hán gia tăng.

Từng bước ngăn chặn tình trạng sa mạc hóa

Chung tay chống sa mạc hoá và hạn hán (Nguồn inertnet).

Những thiệt hại nặng nề

Hạn hán và sa mạc hóa được xem là thảm họa của thiên nhiên, gây ra nhiều tác động tiêu cực tới đời sống con người. Diễn biến ngày càng nghiêm trọng của hiện tượng biến đổi khí hậu trong thời gian vừa qua càng ngày càng cho thấy mức độ nguy hại của hạn hán, dẫn tới sa mạc hóa trong nhiều khu vực trên trái đất. Công ước chống sa mạc hóa của Liên hợp quốc xác định hạn hán là suy thoái đất trong các khu vực khô hạn, bán khô hạn và vùng ẩm nửa khô hạn. Trong những năm gần đây, hạn hán xảy ra thường xuyên và nghiêm trọng hơn. Hạn hán bắt nguồn từ biến đổi khí hậu có nguy cơ làm trầm trọng thêm hiện tượng sa mạc hóa. Các bên tham gia UNCCD đều nhận thức rất rõ về nguy cơ sa mạc hóa và thấy rằng sa mạc hóa là vấn đề có qui mô toàn cầu, ảnh hưởng đến mọi vùng trên trái đất và cộng đồng thế giới cần phải có hành động chung để chống sa mạc hóa. Các bên đều có cái nhìn rõ ràng rằng sa mạc hóa là do nhiều nhân tố tác động như lý học, sinh học, chính trị, xã hội, kinh tế gây ra; nhận thức rõ tăng trưởng kinh tế bền vững, phát triển xã hội và xóa đói giảm nghèo là mục tiêu ưu tiên của các nước đang phát triển bị sa mạc hóa.

Sa mạc hóa ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực của cuộc sống, trong đó nhấn mạnh đến khía cạnh môi trường và sinh kế của người dân; dẫn đến hậu quả làm mất các thảm thực vật; sa mạc hóa khiến cho các đồng bằng bị ngập lũ, dẫn đến đất bị xâm nhập mặn, suy giảm chất lượng nước và phù sa của các sông và hồ. Những khu vực khô cằn vốn đã mong manh. Khi chúng xuống cấp, hậu quả đối với con người, vật nuôi và môi trường có thể bị tàn phá. Theo Liên hợp quốc, khoảng 50 triệu người có thể phải di dời trong vòng 10 năm tới do sa mạc hóa. Tuy nhiên, vấn đề sa mạc hóa không phải là mới - nó đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử nhân loại. Nhưng ngày nay, tốc độ suy thoái của đất canh tác ước tính gấp 30 đến 35 lần tốc độ lịch sử.

Khoảng 2 tỷ người sống phụ thuộc vào các hệ sinh thái đất khô hạn, 90% trong số họ sống ở các nước đang phát triển. Một vòng xoáy đi xuống đang tạo ra ở nhiều quốc gia, nơi dân số quá đông thúc đẩy việc khai thác các vùng đất khô hạn để làm nông nghiệp. Những vùng sản xuất kém này bị chăn nuôi quá mức, đất đai bị cạn kiệt và nước ngầm bị khai thác quá mức.

Sa mạc hoá và hạn hán (Nguồn internet).

Chống sa mạc hoá và giảm bớt hạn hán

Tình trạng biến đổi khí hậu trong thời gian vừa qua càng ngày càng cho thấy mức độ nguy hại của hạn hán , dẫn tới sa mạc hoá trong nhiều khu vực trên Trái Đất. Từ lâu, cộng đồnh quốc tế đã nhận thấy hạn hán và sa mạc hoá là vấn đề rất rộng, liên quan tới cả ba lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường của nhiều quốc gia trên thế giới. Tháng 6/1992, Công ước Chống sa mạc hoá Liên hợp quốc đã được đưa ra tại Hội nghị thượng đỉnh về môi trường và phát triển tại Rio de Janeiro (Brazil). Năm 1994, Đại hội đồng Liên hợp quốc tuyên bố lấy ngày 17/6 hàng năm để kỷ niệm Ngày thế giới chống sa mạc hoá về hạn hán, đánh dấu ngày thông qua Công ước chống sa mạc hoá. Đến năm 2019 có tổng cộng 197 thành viên bao gồm các quốc gia, vùng lãnh thổ và các tổ chức quốc tế. Công ước Chống sa mạc hoá của Liên hợp quốc (UNCCD) với mục tiêu là chống sa mạc hoá, suy thoái đất và giảm thiểu tác hại của hạn hán ở các vùng bị sa mạc hoá và suy thoái đất nghiêm trọng, áp dụng các biện pháp có hiệu quả và sự trợ giúp quốc tế để giúp các nước bị ảnh hưởng bởi thoái hoá, sa mạc và hạn hán phát triển bền vững. Công ước nhằm vào mục tiêu cụ thể: xây dựng các chương trình quốc gia, tiểu vùng và vùng để phòng chống khô hạn và sa mạc hoá; kêu gọi cộng đồng quốc tế hỗ trợ tài chính cho việc chống sa mạc hoá; trao đổi thông tin, kỹ thuật và đào tạo về chống sa mạc hoá; ngăn chặn hậu quả sa mạc hoá dẫn đến di cư ồ ạt, các loài động thực vật bị tiệt chủng, khí hậu thay đổi.

Các thành viên khi tham gia Công ước có các nghĩa vụ chính bao gồm: xây dựng một phương pháp đồng bộ nhằm giải quyết các vấn đề về lý học, sinh học, kinh tế - xã hội của quá trình sa mạc hoá; quan tâm đến các nước đang phát triển hiện đang bị ảnh hưởng bởi sự sa mạc và khô hạn, tình trạng buôn bán quốc tế, nợ nước ngoài, để xây dựng một nền kinh tế bền vững. Các nước thành viên kết hợp chiến lược xoá đói, giảm nghèo với phòng chống sa mạc hoá; tăng cường hợp tác giữa các nước bị sa mạc và hạn hán để bảo vệ môi trường, nguồn đất và nước. Các nước thành viên tăng cường sự hợp tác quốc tế, vùng và tiểu vùng; hợp tác giữa các tổ chức liên chính phủ; thành lập các tổ chức cẩn thiết, tránh sự trùng lặp; tăng cường sử dụng hệ thống tài chính song phương và đa phương hiện có để có thể huy động và hỗ trợ các nước bị ảnh hưởng bởi sa mạc hoá và hạn hán. Việt Nam tham gia và ký kết công ước từ năm 1998 là thành viên thứ 134 của Công ước. Cơ quan đầu mối quốc gia thực hiện Công ước Chống sa mạc hoá là Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Để thực hiện trách nhiệm thành viên và yêu cầu Công ước Chống sa mạc hoá, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình hành động quốc gia phòng chống sa mạc hoá giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2020. Chương trình đã thực hiện một số nội dung: hoàn thiện cơ sở pháp lý bảo vệ tài nguyên đất, tài nguyên rừng và tài nguyên nước để phòng, chống sa mạc hoá; nâng cao nhận thức, đào tạo nguồn nhân lực và tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở nghiên cứu phục vụ công tác phòng, chống sa mạc hoá; điều tra, đánh giá thực trạng sa mạc hoá và nghiên cứu xác định nguyên nhân chủ yếu gây sa mạc hoá, đề xuất giải pháp phòng, chống sa mạc hoá tại Việt Nam. Bên cạnh đó, Tổng cục Lâm nghiệp xây dựng Kế hoạch Khô hạn quốc gia và sẽ điều chỉnh, cập nhật Chương trình hành động quốc gia về phòng chống sa mạc hoá giai đoạn 2021 – 2025, tầm nhìn 2030 và Đề án xác định mục tiêu tự nguyện cân bằng suy thoái đất quốc gia giai đoạn 2017-2020, tầm nhìn 2030. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững và tái cơ cấu ngành chính là giải pháp căn bản để chống sa mạc hoá và suy thoái đất ở Việt Nam. Đến nay Việt Nam có 14,6 triệu ha rừng, trong đó rừng tự nhiên là 10,3 triệu ha, rừng trồng là 4,3 triệu ha, hệ số che phủ bạt 42%, cao hơn mức bình quân thế giới (29%). Năm 2020, diện tích rừng trồng mới tập trung của cả nước ước tính đạt hơn 0,26 triệu ha, giảm 3,2% so với năm trước. Số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 94,6 triệu cây. Diện tích rừng bị thiệt hại là 1464,3 ha, giảm 45,6% so với năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 645,3 ha, giảm 67,8%; diện tích rừng bị chặt phá là 819 ha, tăng 19,4%.

Để thu hẹp lỗ hổng tài chính hiện tại, các chính phủ có thể đầu tư vào hệ thống cảnh báo sớm nhằm ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của hạn hán, cũng như tài trợ cho các hoạt động phục hồi đất đai và các giải pháp dựa vào thiên nhiên. Khu vực tư nhân có thể tích hợp phục hồi hệ sinh thái vào mô hình kinh doanh của họ, thực hiện các biện pháp quản lý chất thải hiệu quả và đầu tư vào các doanh nghiệp xã hội tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp bền vững, du lịch sinh thái và công nghệ xanh.

Hà Anh