Quy hoạch làng nghề tập chung: Nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường
Làng nghề Việt Nam hiện nay còn nằm rải rác chưa tập trung nên khó khăn cho công tác quản lý và bảo vệ môi trường , vì vậy cần phải có một chiến lược xây dựng Quy hoạch làng nghề.
Tiêu chí đưa làng nghề vào khu công nghiệp tập trung : Đối với các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm, phương án quy hoạch với các loại hình sản phẩm khác nhau là rất khác biệt.
ảnh minh hoạ
Các làng nghề nấu rượu thường có quy mô nhỏ do thị trường tiêu thụ hạn chế, hoạt động sản xuất chủ yếu diễn ra theo hộ gia đình, quy mô mỗi làng nghề cũng không lớn, chất thải thường sử dụng triệt để trong chăn nuôi. Do đó đối với các làng nghề nấu rượu, quy hoạch tập trung là không thích hợp.
Với loại hình sản xuất bún, bánh, đậu phụ, một số làng nghề có quy mô sản xuất lớn nên đưa vào khu quy hoạch tập trung. Các làng nghề có 35% số hộ làm nghề có công suất sản xuất mỗi hộ trên 100kg nguyên liệu/ 1 hộ/1 ngày nên được đưa vào khu quy hoạch tập trung.
Quy hoạch tập trung đối với các làng nghề chế biến lương thực thực phẩm cũng có đặc thù riêng là khu quy hoạch phải ở gần làng nghề do đặc thù của việc phân phối sản phẩm. Phương án quy hoạch hợp lý là các làng có khu đất riêng sử dụng cho quy hoạch môi trường.
Mô hình quy hoạch phân tán áp dụng tại làng nghề : Quy hoạch môi trường phân tán với các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm tập trung vào hai vấn đề:
- Các hộ gia đình sản xuất nên làm hầm biogas để xử lý chất thải của quá trình sản xuất. Đặc thù của loại hình chế biến nông sản thực phẩm là các hộ gia đình sản xuất thường kết hợp thêm chăn nuôi để tận dụng xơ bã thải làm thức ăn chăn nuôi. Hoạt động chăn nuôi tại các hộ sẽ phát sinh thêm nguồn chất thải đáng kể. Chất thải từ chăn nuôi bao gồm phân, thức ăn thừa, nước rửa chuồng trại đều có thể đưa vào hầm biogas để xử lý. Việc xây dựng hầm biogas có giá trị kinh tế lớn đã được kiểm nghiệm. Tuy nhiên, lưu ý các hộ gia đình phải đảm bảo đúng kỹ thuật khi xây hầm biogas, tránh việc xây hầm không đúng quy cách dẫn đến những hậu quả ô nhiễm môi trường sinh hoạt lớn.
Đặc điểm hoạt động sản xuất chế biến nông sản thực phẩm là sử dụng rất nhiều nước trong quá trình sản xuất. Nước thải có chứa lượng chất hữu cơ lớn rất dễ bị phân hủy nên thường gây ô nhiễm mùi cũng như mất mỹ quan môi trường. Vấn đề này có thể được giải quyết nếu trong làng nghề có quy hoạch hệ thống thu gom nước thải kết hợp với chương trình quản lý môi trường có sự tham gia tích cực của các hộ dân cư.
- Quy hoạch hệ thống cống thải thu gom nước thải sản xuất và sinh hoạt trong làng. Đó là hệ thống cống ngầm có che chắn. Trên tuyến cống thải phải xây dựng nhiều hố ga. Do nước thải sản xuất và sinh hoạt còn chứa nhiều rác thải như xơ bã rơi vãi, thức ăn thừa, rác sinh hoạt thải theo cống nên nếu không thiết kế các hố ga sẽ nhanh chóng gây tắc cống và làm mất tác dụng của tuyến cống. Với quy mô làng nghề tùy theo nơi đặt thích hợp mà khoảng cách giữa các hố ga là 50-100m. Trước mỗi hố ga có đánh dốc đường cống từ 2-30 để rác thải dễ dàng trôi xuống hố ga còn nước thải tiếp tục chảy theo tuyến cống. Nước thải chảy liên tục không lưu cữu trong cống sẽ không bị phân hủy gây ô nhiễm mùi. Đồng thời hệ thống cống ngầm sẽ không làm mất mỹ quan môi trường trong làng và hạn chế việc thu nhận thêm rác thải trên đường chảy như lá cây, đất cát. Trong quá trình chảy trên tuyến cống, rác thải và đất cát sẽ được thu gom dẫn vào các hố ga, nước thải còn lại có thể thải ra một ao tập trung hay đưa vào hệ thống thủy nông vì hàm lượng ô nhiễm của nước thải không còn cao.
Việc xây dựng các hố ga trên tuyến cống thải sẽ chỉ có hiệu quả nếu có sự tham gia của các hộ nông dân trong hoạt động giữ gìn vệ sinh chung. Mô hình quản lý hoạt động của các hố ga có thể áp dụng trong làng nghề là giao cho một vài hộ phụ trách nạo vét một hố ga trên tuyến cống. Hố ga cần được nạo vét thường xuyên để duy trì hoạt động thu gom rác thải hiệu quả. Các làng có thể đưa ra chương trình hoạt động ví dụ chiều thứ 6 hàng tuần hay tuần cuối tháng nạo vét các hố ga. Các gia đình được giao phụ trách hố ga sẽ thực hiện, đồng thời các gia đình có trách nhiệm bảo vệ tuyến cống chạy qua nhà và thông báo các sự cố trên tuyến để giải quyết kịp thời.
Với việc xây dựng tuyến cống đúng quy cách và chương trình quản lý môi trường hoạt động có hiệu qủa với sự tham gia tích cực của các hộ gia đình chắc chắn sẽ cải thiện căn bản tình trạng ô nhiễm môi trường đang diễn ra tại các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm.
Giáo dục môi trường : Mục đích của việc giáo dục môi trờng là tạo nên trong nhân dân ý thức quan tâm đến môi trường. Với sự nhận thức và trách nhiệm của mình góp phần vào việc bảo vệ và cải thiện môi trường tại chính nơi mình đang sinh sống.
Trang bị cho những người dân những kiến thức về môi trường chung và những giải pháp có liên quan, giúp họ có trách nhiệm và thói quen cần thiết để có các giải pháp giải quyết về vấn môi trường mà họ gặp.
Giáo dục môi trường giúp cho mọi ngời nhận thức được môi trường làm việc và môi trường xung quanh cần được bảo vệ, trước hết là vì lợi ích của chính họ, sau nữa người dân phải hiểu được rằng môi trường là tài sản quốc gia cần được bảo vệ và gìn giữ.
Giáo dục môi trờng cần tiến hành theo các biện pháp khác nhau:
- Dựa vào phương tiện truyền thông đại chúng bằng cách cộng tác chặt chẽ với báo chí và vô tuyến truyền hình, in áp phích, các ấn phẩm…về bảo vệ môi trường.
- Tổ chức các lớp tập huấn về môi trường để tạo cho các cán bộ địa phương và nhân dân nắm được nội dung cơ bản về luật BVMT…nâng cao nhân thức về môi trường, từ đó tự giác chấp hành nghiêm chỉnh về giữ gìn vệ sinh môi trường và an toàn trong sản xuất, trong lao động.
- Sở Tài nguyên và Môi trường kết hợp với Bộ, một số cơ quan nghiên cứu trung ương và các tổ chức quốc tế mở các lớp bồi dưỡng kiến thức về bảo vệ môi trường cho các cán bộ các huyện lỵ và các tổ chức trình diễn xuống các địa phương.
- Kết hợp với UBND các huyện, xã,, Đoàn thanh niên, phụ nữ tổ chức tuyên truyền rộng rãi các ngày lễ môi trường, tổ chức vệ sinh đường làng ngõ xóm, thu dọn, nạo vét kênh mương, ao tù, cống rãnh nhằm thoát nước mưa và nước thải.
- Tăng cường công tác giáo dục truyền thông, nâng cao nhận thức hiểu biết của chủ doanh nghiệp, cán bộ công nhân trong doanh nghiệp và người dân trong làng về các chất ô nhiễm phát sinh trong làng nghề tái chế kim loại:
Môi trường là nơi chúng ta sống và lao động hàng ngày, đó là không khí chúng ta hít thở, là nước chúng ta dùng, là đất chúng ta sản xuất. Môi trường trong sạch sẽ hạn chế bệnh tật, mang lại sức khỏe cho tất cả mọi người, giúp người già sống lâu, trẻ em khỏe mạnh.
Không khí sạch rất cần cho sự sống. Không khí sạch không chứa các chất gây mùi, chất gây độc. Không khí xung quanh làng nghề bị ô nhiễm bởi khí thải từ các cống rãnh, ao hồ có chứa nước thải lưu cữu lâu ngày, khi bị phân hủy sinh học sẽ tạo ra các hơi khí độc: H2S, NH3, CH4,…gây ra các mùi hôi thối khó chịu, bên cạnh đó còn có khí thải từ các lò tráng bánh, vắt bún, nấu đậu,…có chứa các khí CO, NOx, SO2, gây tác động trực tiếp đến sức khỏe con người, tác động lên hệ hô hấp như phổi, phế quản, da làm cho cơ thể cảm thấy mệt mỏi và căng thẳng. Theo số liệu điều tra mới đây tại các làng nghề chế biến thực phẩm cho thấy: Nồng độ NH3 trong không khí ở làng nghề bún và miến gấp » 2,5 lần Tiêu chuẩn cho phép (0,47 mg/m3). Hàm lượng H2S ở tất cả các làng nghề khảo sát rất cao, tại làng nghề sản xuất tinh bột , rượu sắn , miến nồng độ H2S gấp 25-33 lần Tiêu chuẩn cho phép. Hàm lượng SO2 của hộ sản xuất bún ở làng nghề (0,6048 mg/m3) vượt Tiêu chuẩn cho phép (0,5 mg/m3), do quá trình đốt than chất lượng thấp.
Nước sạch dùng cho ăn uống, vệ sinh cần phải sạch, nếu nước bị ô nhiễm có thể đưa vào cơ thể nhiều vi khuẩn gây bệnh và các chất độc hại.
Những nguyên nhân làm bẩn nguồn nước tại làng nghề có thể bao gồm:
- Nước thải sản xuất từ các hộ gia đình có chứa hàm lượng ô nhiễm rất cao, kết hợp với nước thải từ chăn nuôi mang theo ô nhiễm và các nguồn bệnh tật, nước hố xí, nhà tắm chứa nhiều vi trùng gây bệnh thải ra các cống rãnh, ra mương máng, ao hồ, tích lũy dần dần, ngấm vào và lan rộng ra các vùng lân cận gây ô nhiễm nước ngầm trong khu vực rộng.Đặc biệt nước từ khâu tách bột đen trong sản xuất tinh bột có BOD5 lên tới 5.500 – 12.500 mg/l và pH thấp pH = 3,8-5,2. Nước thải cống chung của các làng nghề sản xuất tinh bột đều có độ ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn cho phép: BOD5 gấp từ 5-32 lần, các làng nghề bún bánh cũng không ngoài quy luật trên. Nước cống chung của các làng nghề đều có BOD5, COD rất cao, COD của làng bún vượt quá Tiêu chuẩn cho phép loại B tới 30 lần(COD = 2967 mg/l); Coliform lên tới 370 000 MPN/100ml chứng tỏ nước thải nhiễm phân rất nặng. Nước thải sản xuất đậu phụ có pH thấp, pH = 3,1 – 5,1, BOD5 lớn hơn Tiêu chuẩn cho phép tới 21,6-37,8 lần.
Đất đai: cần cho sản xuất nông nghiệp. Bã thải từ sản xuất không được thu gom, đổ bừa bãi không đúng nơi quy định, nước thải từ sản xuất và chăn nuôi không được xử lý, thải trực tiếp vào các cống rãnh không đúng tiêu chuẩn sẽ làm ô nhiễm đất, làm bẩn nguồn nước sạch, nước ngầm. Đất đai bị ô nhiễm sẽ dẫn đến chất độc hại ô nhiễm trong đất sẽ đi vào cây trồng, thức ăn và nước uống gây tác hại cho con người. Vì vậy vấn đề Quy hoạch làng nghề tập trung là cần thiết cho hiện tại và tương lại.
Nguyễn Văn Đàm
Trưởng Ban khoa học
- Viện Phát triển Năng lực cộng đồng và Môi trường
Tin nóng
- BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HẢI PHÒNG CHUYỂN GIAO KỸ THUẬT IVF CHO BỆNH VIỆN SẢN NHI LÀO CAI
03/04/2025 2:46:53 CH
- Hải Phòng: Khánh thành Nhà máy sản xuất Pin xanh với tổng vốn đầu tư 20 triệu USD
20/01/2025 5:47:18 CH
- Ngành Khoa học và Công nghệ với những sự kiện nổi bật về khoa học, sáng tạo năm 2024
26/12/2024 3:05:09 CH
- Tổ chức kết nối doanh nghiệp sản phẩm công nghiệp chủ lực với các trường đại học đào tạo nghề
01/11/2024 5:07:30 CH
- Sắp diễn ra Triển lãm chuyên ngành quang điện tử tại thành phố Hồ Chí Minh
25/10/2024 2:53:24 CH