Nguyên nhân, hậu quả và một số giải pháp nhằm ngăn chặn sự suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam hiện nay

21/09/2022 7:08:06 CH
Share Bai :

Đa dạng sinh học được hiểu là sự phong phú của nhiều nhiều dạng, loài và các biến dị di truyền của mọi sinh vật trong đời sống tự nhiên, sự đa dạng và phong phú này được chia làm nhiều cấp độ tổ chức sinh giới đặc biệt là với các dạng hệ sinh thái của môi trường trên trái đất.

Việt Nam được đánh giá là một trong số các nước có chỉ số đa dạng sinh học cao. Do sự khác biệt lớn về khí hậu ở vùng cận xích đạo tới giáp vùng cận nhiệt đới, cùng với sự đa dạng về địa hình đã tạo nên sự đa dạng về thiên nhiên và cũng do đó mà Việt Nam có tính đa dạng sinh học cao.

Theo Cục Bảo tồn Thiên nhiên và Đa dạng sinh học, Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam là một trong 12 trung tâm đa dạng sinh học của thế giới, có tiềm năng đa dạng sinh học rất phong phú và sự đa dạng cao về các nguồn gen quý, hiếm. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà hiện nay, suy thoái đa dạng sinh học hiện nay là vấn đề vô cùng quan trọng, điều này đang đặt ra cho Việt Nam nhiều thách thức cần phải giải quyết kịp thời. Mặc dù, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực từ chủ trương, chính sách đến hành động nhưng thực tế hệ sinh thái, đa dạng sinh học của Việt Nam liên tục bị suy giảm và suy thoái với tốc độ rất nhanh.

1. Nguyên nhân gây suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam

          Một là, chiến tranh

Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên sự suy thoái đa dạng sinh học, trong thời kỳ hiện đại, với 30 năm chiến tranh (1945 - 1975), nhất là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Việt Nam đã hứng chịu tới 72 triệu lít chất dioxin, khoảng 13 triệu tấn bom đạn… hậu quả là hơn 2 triệu hec-ta rừng đã bị phá hủy. Bên cạnh đó, việc phá rừng làm ruộng phục vụ kháng chiến cũng dẫn đến suy giảm một diện tích rừng khá lớn.

          Hai là, cháy rừng

Hàng triệu năm qua, quy luật tự nhiên đã đưa các cánh rừng già trải qua rất nhiều cơn hỏa hoạn, mỗi lần như vậy, đa dạng sinh học lại bị suy thoái nghiêm trọng. Mặc dù Việt Nam rất nỗ lực từ chủ trương, chính sách đến hành động trong việc phòng và chống cháy rừng, nhưng thực tế hệ sinh thái, đa dạng sinh học của Việt Nam liên tục bị suy giảm và suy thoái với tốc độ rất nhanh.

          Ba là, khai thác quá mức

          Tài nguyên rừng, biển có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì cân bằng sinh thái và đa dạng sinh học của hành tinh. Tuy nhiên, với việc khai thác một cách thái quá tới mức độ cạn kiệt và tuyệt chủng các loài động, thực vật hoàng dã quý hiếm là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm đa dạng sinh học ở Việt Nam hiện nay.

          Bốn là, xây dựng cơ sở hạ tầng thiếu tính khoa học và quy hoạch

Xây dựng cơ sở hạ tầng gồm đường xá, cầu cống, các khu dân cư, khu du lịch, thương mại… Việc thiếu quy hoạch, thiếu cơ sở khoa học đã dẫn đến làm mất tính liên tục của vùng phân bổ các loài, gây nhiễu loại và suy thoái môi trường tự nhiên.

          Năm là, sự di lấn và xâm nhập của các loại sinh vật ngoại lai.

Đa dạng sinh học của nước ta đã và đang bị nguy hại bởi các loài ngoại lai như: ốc bươu vàng, hải ly, trinh nữ đầm lầy, bèo Nhật Bản … 

2. Hậu quả của suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam

          Theo Hiệp hội Bảo tồn động vật hoang dã Việt Nam, từ 1/2013-12/2017, cả nước có 1.504 vi phạm; 41.328kg cá thể và sản phẩm, 1.461 đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật; 432 bị cáo bị xét xử trong các vi phạm hình sự về động vật hoang dã. Ngoài ra, những tác động bất lợi từ biến đổi khí hậu, nước biển dâng đã xuất hiện và có xu hướng ngày càng nghiêm trọng, để lại những hậu quả nặng nề, thậm chí không còn khả năng phục hồi đối với đa dạng sinh học, các hệ sinh thái tự nhiên trên cạn cũng như dưới nước.

          Diện tích các khu vực có các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng bị thu hẹp dần. Số loài và số lượng cá thể của các loài hoang dã bị suy giảm mạnh, nhiều loài bị đe dọa tuyệt chủng ở mức cao, đặc biệt các loài thú lớn và một số loài linh trưởng.

Các nguồn gene hoang dã cũng đang trên đà suy thoái nhanh và thất thoát nhiều. Suy thoái đa dạng sinh học dẫn đến mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống và sinh kế của con người, đe dọa sự phát triển bền vững.

3. Một số khuyến nghị nhằm khắc phục sự suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam hiện nay

          Thực tế, hiện nay nhận thức của nhiều cấp ủy đảng, chính quyền cũng như người dân về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác bảo tồn các loài động, thực vật hoang dã chưa đầy đủ và đúng mức. Việc tuyên truyền các chủ trương, chính sách pháp luật về bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ các loài động, thực vật hoang dã chưa thực sự được coi trọng, chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục. Trong nhân dân, còn khá phổ biến tư tưởng muốn sử dụng các sản phẩm từ động, thực vật hoang dã làm thực phẩm, thuốc chữa bệnh, đồ trang sức, thời trang, mỹ nghệ, quà biếu, tặng. Kinh phí cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học còn dàn trải, thiếu trọng tâm, thiếu cơ chế khuyến khích đầu tư, phát triển đa dạng sinh học từ trung ương đến địa phương…

          Để bảo tồn có hiệu quả hệ sinh thái và đa dạng sinh học, Cục Bảo tồn Thiên nhiên và Đa dạng sinh học cho rằng, cần tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu đối với công tác bảo vệ môi trường nói chung và công tác bảo tồn đa dạng sinh học nói riêng. Công tác điều hành phải luôn tính đến yếu tố bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, đánh giá tác động môi trường của các dự án phát triển kinh tế – xã hội; cân nhắc và chú trọng ngay từ đầu việc đánh giá những ảnh hưởng của các chính sách phát triển, các dự án kinh tế tới đa dạng sinh học…

          Việc kiểm điểm đánh giá kết quả thực hiện các chương trình, kế hoạch hành động về bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học phải được xem là một trong những tiêu chí để xếp loại và đánh giá cán bộ hàng năm, là cơ sở để xem xét đánh giá bổ nhiệm cán bộ.

          Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật đa dạng sinh học theo hướng thống nhất quản lý về đa dạng sinh học; đề xuất ban hành chỉ thị hoặc nghị quyết riêng về bảo tồn đa dạng sinh học nhằm tạo sự thông suốt về nhận thức, tư tưởng và hành động của toàn Đảng, các cấp, các ngành và sự đồng thuận trong nhân dân; hoàn thiện thể chế nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đa dạng sinh học; tăng cường việc thực thi chính sách, pháp luật về bảo tồn đa dạng sinh học; tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đa dạng sinh học; tạo cơ chế huy động sự tham gia và hợp tác đa bên trong bảo tồn đa dạng sinh học.

          Công tác truyền thông và xây dựng năng lực về bảo tồn đa dạng sinh học cần được đẩy mạnh; đồng thời triển khai một số mô hình lồng ghép bảo tồn đa dạng sinh học trong phát triển kinh tế-xã hội, du lịch sinh thái địa phương; bảo tồn gắn với sinh kế, dựa vào cộng đồng; xây dựng mô hình chi trả dịch vụ môi trường và mô hình chia sẻ lợi ích từ việc phát sinh sử dụng nguồn gen. Các bộ, ngành cần kịp thời cung cấp các thông tin về các vụ việc có xung đột môi trường nói chung, bảo tồn đa dạng sinh học nói riêng để kịp thời chỉ đạo và định hướng tuyên truyền.

          Việt Nam tiếp tục xây dựng Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học giai đoạn 2021 - 2030; quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia giai đoạn 2021-2030; đề án điều tra cơ bản về quản lý tài nguyên, môi trường và lập cơ sở dữ liệu quốc gia về đa dạng sinh học; triển khai các chương trình, đề án về bảo tồn các loài nguy cấp, quý, hiếm; chương trình bảo tồn nguồn gene.

Vườn Quốc gia Tràm Chim (huyện Tam Nông - Đồng Tháp) là 1 trong 8 khu bảo tồn các loài chim quan trọng nhất của Việt Nam. 

Tấn Sang